Đình là nơi phụng thờ Thành hoàng làng Phùng Luông, một vị tướng tài ba đã kề vai sát cánh cùng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng trong công cuộc chống ách đô hộ của nhà Đường vào thế kỷ thứ VIII. Tương truyền, Ngài Phùng Luông là cháu gọi Phùng Hưng bằng chú, đã theo sát vị thủ lĩnh trong suốt cuộc khởi nghĩa. Điều thú vị là làng Hòa Mục (nay thuộc phường Yên Hòa, Cầu Giấy) cũng thờ ba vị tướng là ba chị em Phạm Uyển, Phạm Miện, Phạm Huy, những người đồng thời là anh em con cô con cậu với Phùng Luông. Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, để tri ân công lao to lớn của Ngài đối với dân tộc và đất nước, dân làng Giáp Nhất đã lập đền thờ, tôn Ngài làm Thành hoàng làng và rước về phụng thờ tại đình.
Xuyên suốt các triều đại từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, vị Thành hoàng của làng Giáp Nhất luôn được sắc phong là Thượng đẳng phúc thần, khẳng định Phùng Luông là một nhân vật lịch sử có thật, một người anh hùng dân tộc được tôn vinh. Hàng năm, vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch, dân làng long trọng tổ chức lễ tế Thành hoàng, duy trì và phát huy truyền thống "Uống nước nhớ nguồn". Dù đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử dân tộc, đình làng Giáp Nhất vẫn luôn là trung tâm sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng cốt lõi của cộng đồng dân làng.
Đình được xây dựng từ rất lâu trên một gò đất cao, nằm ở bờ Nam sông Tô Lịch, hướng mặt về Đông - Đông Bắc. Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, đình được xây trên thế đất hình con voi, với bốn ao bao quanh là bốn chân voi, hai gò là tai voi, còn bờ ruộng kéo dài ra sông Tô Lịch uốn lượn phía trước được ví như vòi voi. Đáng tiếc, hai ao phía sau đình đã bị lấp kín sau năm 1960.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đình Giáp Nhất từng là nơi hội họp bí mật, nuôi dưỡng cán bộ và chuyển tiếp thương binh. Tuy nhiên, di tích đã bị giặc Pháp đốt cháy.
Hiện nay, trong khuôn viên đình, phía bên phải là giếng cổ, bên trái là ao đình, đan xen với những cây muỗm cổ thụ xum xuê, tỏa bóng mát, tạo nên một cảnh quan đẹp và hiếm có. Tổng thể khu di tích bao gồm cổng đình, sân, giếng, ao đình, miếu thờ thần giếng, bậc thềm đá, tòa Đại bái, Hậu cung và nhà oản.
Phía trước cổng đình là một không gian rộng rãi, thoáng đãng, hướng ra sông Tô Lịch, đối diện bờ bên kia là đường Láng. Theo tài liệu và lời kể của cụ giáo Nguyễn Bá Đạm, cổng đình và cổng làng Giáp Nhất đều do ông Đỗ Hữu Thục, tức Cai ba Thục, chủ Ty rượu Văn Điển và Quốc Bảo nổi tiếng đầu thế kỷ XX, bỏ tiền công đức xây dựng.
Hậu cung của đình được tu sửa vào năm 1986 để phục vụ thờ tự. Hai cột trụ chính trước cửa đình, vốn đã bị đạn Pháp phá hỏng trong chiến tranh, được tiến hành sửa chữa lớn vào năm 1990, đồng thời các hạng mục khác cũng được làm lại theo lối kiến trúc cũ và có quy mô như hiện nay.
Chính giữa cổng trụ là lối đi rộng hơn 4m, được lát viền bằng đá tảng xanh. Chân trụ cao làm theo kiểu đế trái giành, thân có bổ ô viết câu đối, đỉnh trụ đắp rồng cách điệu nhìn về bốn phương, phía trên cõng đôi nghê chầu vào giữa. Hai bên thân trụ chính xây tường kiểu cuốn thư, nối với hai cổng nhỏ xây kiểu vòm cuốn, mái cổng làm giả ngói lưu ly bằng vôi vữa, tạo nên sự mềm mại cho khối kiến trúc. Nối tiếp hai cổng nhỏ là bức tường lửng kết thúc bằng trụ biểu nhỏ, đỉnh trụ đắp bốn phượng cách điệu hình lá lật. Kiểu bố cục này khéo léo tạo ra một không gian thiêng liêng, là nơi chuyển tiếp, giao lưu văn hóa tự nhiên giữa thế giới trần tục bên ngoài và thế giới thần thánh ngự trị bên trong.
Qua khoảng sân rộng lát gạch, bên phải là giếng đất cổ có bậc lên xuống (nay đã được tôn tạo kè đá). Dù không còn được sử dụng cho sinh hoạt, giếng vẫn là biểu tượng, điểm tô cho vẻ đẹp của ngôi đình. Cạnh giếng là ngôi miếu nhỏ hình vuông, mái lợp đơn giản, là nơi thờ thần Giếng. Bên trái sân là ao đình đã được kè xung quanh. Từ sân đình, đi qua chín bậc đá cao khoảng 1,8m sẽ đến hiên tòa Đại bái.
Đại bái là nếp nhà kiến trúc hình chữ "nhất" theo kiểu tường hồi bít đốc, gồm năm gian, mỗi gian rộng khoảng 2,5m. Hồi bên phải có cửa nhỏ dẫn xuống nhà oản, hồi bên trái có cửa ngách kiểu cuốn vòm dẫn ra cầu thang gạch mười bậc xây lộ thiên. Tường xung quanh Đại bái được xây bằng gạch Bát Tràng miết vôi và mật, để mộc không trát; phía ngoài tường hồi hai bên có đắp mặt hình hổ phù. Cửa chính vào Đại bái làm theo kiểu "thượng song hạ bản" gồm bốn cánh, ghi bốn chữ "Tả hữu phùng nguyên" và trang trí hoa quả, bút, hòm sách. Kết cấu bộ vì làm theo kiểu chồng rường giá chiêng, kẻ bẩy hiên, tạo sự thông thoáng, hài hòa.
Hậu cung được kết cấu ba gian kiểu "thượng chồng rường hạ kẻ bẩy". Đại bái và Hậu cung xây dựng theo kiểu chữ "nhị", khoảng cách giữa hai tòa nhà là rãnh thoát nước, trên rãnh lát hai tảng đá xanh làm lối vào Hậu cung. Lối kiến trúc này giúp cả hai tòa nhà đều đón được ánh sáng tự nhiên và tạo không khí mát mẻ. Gian giữa Hậu cung có xây bệ gạch đặt ngai, bài vị và ban thờ Đức Thành hoàng làng.
Về tổng thể, kiến trúc đình Giáp Nhất tuy có phần giản dị nhưng các cấu kiện gỗ lại được chạm khắc khá tỉ mỉ, mềm mại, mang nhiều hàm ý sâu xa, thể hiện khát vọng về sự no đủ, giàu có, học hành, trí tuệ và hạnh phúc. Các bức hoành phi, câu đối và đồ thờ tự đều được sơn son thếp vàng, tạo nên sự tôn nghiêm cho không gian thờ cúng. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được ba tấm bia đá, trong đó có bia "Hậu thần" khắc năm 1812 và một bia khắc năm 1892; nhiều chân đá tảng cột đình, phiến đá lát thềm kích thước lớn; hai nhang án gỗ lớn; một Ngai thờ chạm rồng cuốn tinh xảo; một quả chuông nhỏ cùng nhiều đồ thờ có giá trị khác.
Với những giá trị sâu sắc về lịch sử và văn hóa nghệ thuật, đình Giáp Nhất đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1992. Ngày 27/8/2006, đình Giáp Nhất vinh dự được tổ chức Lễ đón nhận Quyết định của UBND thành phố Hà Nội về việc công nhận và gắn biển di tích Cách mạng kháng chiến, khẳng định vai trò kép trong đời sống tâm linh và lịch sử đấu tranh của dân tộc.
Đình Giáp Nhất xứng đáng là một công trình tiêu biểu cần được bảo tồn và phát huy giá trị trong dòng chảy văn hóa Thủ đô./.
Phòng Văn hóa - Xã hội phường